Trang 1

31 thg 3, 2012

NGUYỄN TỘC TỪ ĐƯỜNG

              Kỷ niệm lần thứ 2 khánh thành Nguyễn Tộc Từ Đường

Hãy lắng nghe lời răn vọng của Tổ Tiên: “Vật vốn từ trời, người gốc ở tổ, muôn dòng nước đều bắt đầu chảy từ ngọn nguồn, cây phải có gốc, có ngọn, có cành, từ đó lá hoa mới được sinh ra". (trích từ Gia Phả). Chúng ta, những lá những hoa, được cha mẹ sinh ra vốn sẵn có tính niệm ân, niệm đức đối với sự việc, huống đối với những Đấng sinh thành tạo hoá ra thân chúng ta, ra Thân Sinh chúng ta, ra các Tổ Khảo và những đời trên nữa, thì tấm lòng niệm ân niệm đức của chúng ta tất phải thiết tha nồng nhiệt dường nào!
Chúng ta có cái thân cao hay thấp này, được đội cái tên Nguyễn Văn hay Nguyễn Thị này, há chẳng phải nhờ một giọt huyết của Liệt Tổ Liệt Tông ta di truyền xuống cho? Huống nữa, công danh sự nghiệp lớn nhỏ thế nào, há chẳng nhờ nền phúc ấm đắp xây từ trước? Ngôi nhà cốt nhất cái nóc, dòng họ cốt nhất mồ mả Tổ Tiên, bàn thờ Gia tộc, há chẳng phải là những điều linh thiêng nhất đối với mỗi đời người?
Họ ta từ thuở sơ khai hàn vi, lưu lạc, đã hơn 240 năm trải qua biết bao gian nan khó nhọc trong mấy thế đại mới dần dần gây dựng nên cơ nghiệp ngày nay. Truy niệm công đức của Liệt Tổ Liệt Tông, nhớ lời di lưu ngay trong trang đầu của Tộc phả:
揚功由己得,陰德豈人知:
Dương công do kỷ đắc, Âm đức khởi nhân tri”,
chúng ta thấy các cụ tề gia phụng tiên, chỉ noi theo một đạo hiếu đễ, muốn nên người phải có Đức với Tổ Tiên-Người Âm), mà gây dựng thành nền tảng, một gia tộc vẻ vang, có chế độ chỉnh đốn, có quy tắc rạch ròi.
Tổ Tiên ta từ xa xưa vốn an bần lạc đạo, song đã từng “giúp nhà Lê cai quản trấn Cổ Dũng, huân nghiệp rạng rỡ; đến Hoàng triều nhà Nguyễn mở vận, về trấn nhậm thành Hải Dương, hiển rạng danh tích…” (trích từ Tộc Phả), có vị Cao Tổ đã từng trúng khóa sinh trong nhiều lần thi cử thuộc Hoàng triều, đã từng là Lão Nhiêu của hội Thanh Tu, có Vị là nhà Nho mà thiên hạ tôn kính bằng Thầy, nhưng vì khi đó dòng tộc còn quá neo người nên có lẽ chưa xây dựng được Từ Đường.
Ngày nay lớp lớp con cháu hậu duệ chúng ta, còn nhiều gian nan vất vả, lận đận bể dâu, gặp điều tai ách, song được hưởng thụ những Công Đức viên mãn của Tổ Tiên, há không biết noi gương Tiền Đại mà lo tôn bồi, vun quén nền gốc Họ cho được kiên cố thịnh mậu, trước là báo đức đền ơn với Liệt Tổ Liệt Tông, sau là kết chặt mối tình cốt nhục giữa họ hàng con cháu.
Mùa Thu Tháng chín năm Mậu Tý (2008), Hội đồng Gia tộc xét thấy việc thờ, việc Họ phải nên chỉnh đốn cho hợp với tình thế hiện thời, một là phải khẩn trương xây dựng Từ Đường họ, hai là việc thờ tự cần củng cố lại, vừa là trách nhiệm vừa là ý niệm Tâm Linh của mỗi cháu con trong họ, sao cho được cộng đồng chu tất.
Việc xây dựng Từ Đường là một công trình của cả họ, ai nấy đều hăng hái lạc tùng, người nghèo cũng hết lòng như người có, bên ngoại cũng như bên nội, dâu cũng như rể, kẻ ít người nhiều vừa đóng góp vừa cúng tiến công sức, tiền của, đặng mong họ ta sớm có được một Từ Đường trang nghiêm, sạch sẽ, trước là để Phụng thờ Tiên Tổ, sau là để con cháu đi xa về gần, cưới vợ gả chồng, xây nhà đắp cổng, có nơi thanh cao, thắp nén Tâm Hương, bái kính Tiên Tổ.
“NGUYỄN TỘC TỪ ĐƯỜNG” chưa được là sùng sơn thắng địa, nhà cửa còn đơn sơ, nội thất còn nghèo nàn, còn cần thêm tấm lòng hảo tâm Kính Tổ của nhân tộc. Song vốn: nhà thờ họ đâu cần phải tráng lệ nguy nga, sở vọng của Gia Tộc ta là “Dương công”, “Âm đức”- (thành công và có đức với Tổ Tiên), là tình tương thân tương ái đó thôi. Sở nguyện ấy được minh chứng bằng hai đôi câu đối trước cửa Từ Đường:
Nguyện con cháu sau này hãy bồi dưỡng lấy tinh thần ấy cho Gia Tộc ngày thêm vững bền, thịnh vượng.
“NGUYỄN TỘC TỪ ĐƯỜNG” không tráng lệ cũng đủ uy nghiêm, nghèo hình thức nhưng giàu nội dung, ấm cúng mà tôn nghiêm, đơn giản mà linh thiêng, lại thêm kề gần trong họ, tiện cho việc ông con, bà cháu tới lui sớm hôm, vui vẻ có nhau, tộc nghị lân tình, càng thêm đầm ấm.
Duy cầu Tiên Linh thùy lân gia hộ.

                                  Giỗ Tổ lần thứ (khoảng) 240 - (4/11/ Kỷ Sửu).
                                                Tộc trưởng Nguyễn Văn Hớn
                                                              (bái ký)

28 thg 3, 2012

“HUYẾT” THƯ


“HUYẾT” THƯ GỬI CÁC CHÚ THÍM,
CÁC EM TRONG HỌ
Hà Nội ngày 2 tháng 3 năm 2012
(mồng 10 tháng 2 năm Nhâm Thìn)
Kính thưa các chú các thím cùng các em trai gái dâu rể trong họ.
Trước khi có vài lời tâm huyết xin các chú thím, các em (nếu có điều kiện, hãy thắp nén hương thơm, quỳ (hoặc đứng) trước Bàn Thờ) đọc kỹ và suy ngẫm trích đoạn “Văn tế họ Nguyễn” sau:
TRÍCH VĂN TẾ HỌ NGUYỄN
Công Tiên Tổ tô bồi thuở trước
Tưởng Tiên Linh nhờ phước người xưa
Công lao trải mấy nắng mưa
Lập nên sự nghiệp kế thừa đến nay.
Ơn cao cả như cây Núi Thái
Nghĩa bao la như nước Biển Đông
Khó khăn nào có quản công
Cơ đồ hưng thịnh non sông vững bền.
Con với cháu kế truyền mãi mãi
Hiếu với Trung tiếp nối đời đời
Làm sao đúng mực Con Người
Nên trang lịch sử, nên người nghĩa nhân.
Trai xứng đáng học hành chăm chỉ
Gái giữ gìn tính nết đoan trang.
Nhân ngày Tổ Kỵ thu thường
Cầu ơn Tiên Tổ mười phương chứng lời.
Nguyện gia hộ cho đời hưng thịnh
Nguyện phước từ nối cảnh bình an.
Ơn xưa Tổ Đức gia quang
Đến nay dòng dõi vẻ vang lưu truyền.
Phò trì chi gia huệ giã!
(tất cả con cháu chút chít dâu rể) Cẩn cáo !
Kính thưa các chú thím, thưa các em!
Nghiên cứu kỹ “Gia Phả” mà các Cụ để lại, ta thấy: Điểm lại suốt quá trình hình thành và phát triển dòng họ, từ khi Cụ Thuỷ Tổ họ ta về đất này khai Thiên lập Địa, lập nên họ Nguyễn Văn ta, thì từ nhiều năm nay, tình hình chung trong Họ đang bị thoái trào, suy yếu chưa từng có; chưa có thế hệ nào, đời nào gặp nhiều gian nan vất vả, nhiều tai ương như đời hiện tại ! Xưa kia có Cụ làm quan tới cấp tỉnh, khi mất được Vua phong cho chữ Thuỵ - người có công với Triều đình - (Gia phả ghi: Họ ta đã từng có Cụ “giúp nhà Lê cai quản trấn Cổ Dũng, huân nghiệp rạng rỡ. Đến Hoàng triều nhà Nguyễn mở vận, về trấn nhậm thành Hải Dương, … , hiển rạng danh tích cho đến ngày nay, mà cháu con ngày càng nhiều”); nhiều cụ học hành rất cao, làm thầy thiên hạ, được nhiều người kính trọng cho đến tận bây giờ. Đến đời nay, đời của chú cháu anh em ta, đã ai vượt quá được Đại học?! làm quan đã ai quá được cấp xã ?! Nếu có cố gắng lắm cũng chỉ được nửa vời.
Tại sao? Tại sao đời nay chú cháu, anh em ta không “khá” lên được? Tại sao ta gặp quá nhiều tai bay vạ gió ? Tại sao lại bị lắm tai ương, bệnh tật ? Tại sao trong có vài năm mà nhiều người ra đi vội vã thương tâm là vậy ? Tại sao có người nói “cái Phúc của Họ ta rất mỏng” ? Tại sao … ???
Ừ thì tại ta nghèo, chưa gặp may, v. v … Nhưng tại sao ta nào có lười biếng, nào có không cố gắng chịu đựng vất vả, gian truân mà may mắn vẫn không đến, hưng thịnh (kể cả số xuất đinh) và bớt nghèo đói vẫn là thứ xa xỉ, chưa với tới được; nghèo vẫn hoàn nghèo, cơ cực vẫn hoàn cơ cực; con cháu vẫn không khấm khá hơn, mãi vẫn chỉ là một họ nhỏ.
Các chú thím, các em ơi ! Dù ban ngày làm lụng vất vả, chồn lưng mỏi gối, đêm về thử vắt tay lên trán mà nghĩ : Tại sao, tại sao lại như vậy ??? Ta nghĩ và hành động không chỉ cho đời ta, mà còn vì con cháu chúng ta. Làm sao phát huy và củng cố được VƯỢNG KHÍ vốn có của dòng tộc mà Liệt Tổ Liệt Tông để lại ? Đừng để HỒN THIÊNG của dòng tộc chìm vào dĩ vãng!
Hãy nhìn cái gương sờ sờ ngay trong xóm, vì sai lầm của cá nhân, coi thường tục lệ, coi thường Vượng Khí, coi thường phong thuỷ mà phải chịu tai ương, mà vốn xuất phát điểm của họ thuận lợi hơn anh em ta nhiều. Ngược lại, có những gương (ngay trong thôn ta hay bên Lễ Độ) đề cao tinh thần dòng tộc, giữ được Vượng khí của Tổ Tiên, họ ăn nên làm ra, con cháu đông vui, học hành đến nơi đến chốn. Có người lập gia ở nơi khác, tạo dựng dinh cơ ở mãi tận đâu, gia đình thịnh vượng, họ lại bỏ ra bao nhiêu công sức, tiền của đến hàng tỷ để xây dựng Nhà thờ họ, làm đường, xây cổng cho làng, đặng tri ân Tiên Tổ, đền đáp công ơn Tổ Tiên, làm phúc cho họ hàng, làng xóm trên quê hương mình, mặc dù về vật chất, họ chẳng mang về nhà họ được gì. Tại sao họ làm vậy ? Họ đâu có dở người, đâu có dại khờ, đâu có muốn khoe khoang. Họ sẽ được những gì, chắc chắn ai cũng biết. Nhắc đến các gương trên, những người thật, việc thật, ngay cạnh ta, cùng thời với ta để thấy rằng: đây là những lời duy vật, biện chứng, không hề mê tín.
Còn họ ta thì sao ? Trong mấy chục năm qua, gia đình Tộc trưởng cũng bị tai ương, sự kế thừa bị gián đoạn. Hơn nữa, vì những lý do khác nhau, trưởng Tộc và một vài cá nhân mắc những sai lầm nhất định. Hãy bình tâm mà tự nghĩ suy, xem cái tâm với Tổ Tiên, đức bản thiện, lòng bao dung độ lượng, tính ích kỷ của ta thế nào mà dẫn đến hậu quả như ngày nay. Vượng Khí của dòng tộc bị giảm suy, cả họ có nguy cơ thụt lùi, không phát triển.
Nay chúng ta, cấp bách lắm rồi, vì sự Anh Linh của Tổ Tiên, vì là máu thịt của Cha Ông, vì danh mang tên họ Nguyễn, vì tương lai cho các thế hệ mai sau, bố con, chú cháu, anh em, dâu rể nội ngoại hãy đồng tâm nhất trí, quyết tâm (dù có muộn) chỉnh đốn Họ, củng cố và phát huy Vượng Khí của Tiên Tổ, để họ ta phát triển vững bền.
Những năm tháng gần đây, chúng ta đã làm được những gì để mong vớt vát lại, để giảm thiểu đi những cơ cực bần hàn, những tai ương quái ác? Thiết nghĩ, không cần nhắc lại, vì ai cũng biết. Đến đây có người sẽ hỏi: Họ ta xây được Từ Đường rồi mà sao bất hạnh vẫn còn ? Xin thưa: xây Từ Đường chỉ là một việc. Sự may mắn, có phúc, muốn có sự phù hộ độ trì của Tiên Tổ còn phụ thuộc nhiều yếu tố khác nữa, trong đó cái TÂM thờ cúng (Âm đức) của mỗi người là quan trọng nhất. Có Từ Đường rồi mà nếu để hương lạnh khói tàn thì khác chi chưa có. Hơn nữa, Từ Đường (dù giản đơn), kể cả Phần Mộ Tổ vẫn chưa hoàn thiện ! Nếu có điều kiện, hãy thử xem những gia đình thịnh vượng thờ cúng Tổ Tiên, cụ kỵ ông bà cha mẹ họ thế nào.
Lại có người hỏi: Tổ Tiên ta xưa kia chưa có Nhà Thờ họ sao có vẻ vẫn phồn thịnh, phát triển cho tới ngày nay? Xin thưa: Cái Nhân, cái Thiện, Cái tình trong gia đình, họ hàng, kể cả làng xóm lúc ấy khác xa bây giờ, nó đầm ấm gắn bó hơn rất nhiều lần ngày nay. Nhiều người trong chúng ta còn nhớ, ông cha ta thời ấy, không chỉ các dịp lễ tết, giỗ chạp, mà cả những ngày bình thường, thường xuyên gặp mặt ở Chùa, hoặc tại nhà trưởng tộc, trước là tri ân Tiên Tổ (Từ Đường lúc ấy chỉ đơn giản là chiếc Bàn thờ tại nhà trưởng tộc), sau là đàm đạo giúp nhau trong cuộc sống. Ai sai các Cụ phê phán, chỉ bảo. Vì vậy các Cụ giữ được hoà khí, duy trì được HỒN THIÊNG của dòng họ. Nay vì cuộc sống hiện đại, “đèn nhà ai nhà nấy rạng”, con cháu lại xa quê nhiều, thử hỏi: nếu không có Nhà Thờ họ thì việc thờ cúng Tổ Tiên sẽ ra sao ?! Hay nghãnh nào cũng vừa thờ Tổ vừa thờ nghãnh ! Con cháu trong họ được mấy khi tụ tập đông đủ mà nhận ra nhau !
Cha ông ta thường dạy: “Điều linh thiêng nhất đối với mỗi một người là: Ngôi nhà cốt nhất cái nóc, dòng họ cốt nhất mồ mả Tổ Tiên, Bàn thờ Gia tộc”. Đó là nhân văn, là cái đạo cốt lõi để làm người. Xa rời cái đó, chỉ chăm lo cho cá nhân mình, gia đình mình là xa rời anh em, xa rời dòng họ, xa rời chữ HIẾU, chữ TRUNG, hậu quả khôn lường. Sự thăng trầm của dòng họ gắn liền với sự thăng trầm của mỗi gia đình trong họ.  Chưa thấy ai sống được, chết được mà không có họ hàng, làng xóm.
Quán triệt tinh thần đầy tính nhân văn, trung hiếu đó, họ ta mới đồng tâm nhất trí xây dựng Từ Đường, mặc dù còn vô vàn gian khó. Nếu đời này ta không làm được, thì chắc gì đời sau con cháu ta làm nổi. Chẳng muốn nhắc lại, nhưng đành phải nói: Đó là lý do mà trưởng tộc, dù chẳng hơn gì anh em trong họ, dù đã có nhà cửa “đàng hoàng” trên Hà Nội, dù vẫn thờ cúng Tổ Tiên ở Hà Nội được, mà vẫn bỏ ra hơn trăm mét đất để xây dựng Từ Đường, bao năm trăn trở đóng góp nhằm phục hưng và duy trì tình họ hàng, nghĩa anh em chú cháu. Tiện đây, xin hỏi nhỏ: Họ ta liệu còn có ai dám bỏ đất, bỏ tiền ra làm được như vậy?! Nếu tộc trưởng cứ chỉ thờ cúng Tổ Tiên ở Hà Nội thì mọi người có trách móc được không ?
Mới trong khoảng hơn 10 năm gần đây, trải qua bao nhiêu cố gắng nghĩ suy, bao nhiêu gian khó nhọc nhằn, chú cháu anh em ta mới phục hồi lại được giỗ, tết Tổ Tiên, làm tươi lại tình cảm họ hàng, anh em chú cháu như ngày hôm nay. Chúng ta cần khiêm tốn, việc chúng ta làm chưa được bao nhiêu, nhưng cũng thầm tự hào rằng “tinh thần dòng họ” đã ấm cúng trở lại, hơn hẳn 15, 20 năm trước, rằng nhiều họ khác mong được như vậy mà chưa làm được.
Thế mà buồn thay, nghẹn ngào thay, vì Vượng Khí của dòng họ, nói cho dễ hiểu là vì muốn củng cố, duy trì, phát huy truyền thống Tổ Tiên, muốn có Phúc cho toàn họ, muốn được Tiên Tổ phù hộ độ trì, tránh, bớt được tai ương, Nhà Thờ họ đã làm xong, Bàn Thờ Tổ Tiên đã có, mà một lối đi vào Từ Đường mãi chưa xong. Hương Linh Tiên Tổ muốn về dự giỗ tết, muốn chứng giám lòng thành của cháu con, muốn thụ hưởng lễ vật, muốn phù hộ độ trì cho con cháu, (như lời ta thường khấn), thì về Từ Đường bằng đường nào? (đừng nghĩ các Cụ bay về, “dương sao âm vậy” cơ mà). Cứ theo lời Phan Thị Bích Hằng, thì liệu các Cụ có bị đói, bị rét?! vàng mã cháu con cúng tiến liệu có đến được với các Cụ?! Vậy các Cụ liệu có đủ sức phù hộ độ trì cho cháu con?
Vì sao ? vì sao lại thế ? Vì sao ???
Nhớ tới câu “Xởi lởi Trời cho, so đo Trời phạt”, hay câu “của Chùa lấy một đền mười” mà thấy cay cay nơi khoé mắt, chát mặn nơi đầu lưỡi. Chờ đợi mãi, khuyến khích mãi, mong mỏi mãi có một em nào đó, một cháu nào đó vượt lên được hơn bác, hơn anh, mà đến giờ vẫn chỉ là mong đợi nếu không muốn nói là thất vọng !
Nhìn sang họ Phan bên cạnh mà thèm, (cách ta có vài chục mét). Không nghĩ đến thì thôi. Nghĩ đến mà thật sự đau lòng, thật sự tủi hổ, thật sự buồn. Con cháu người ta thành đạt hơn hẳn con cháu họ mình. Tiềm lực người ta mạnh hơn hẳn lần tiềm lực họ mình. Họ thừa sức mua cả nghìn mét đất. Thế mà khi xây dựng Nhà Thờ họ, vẫn có một bà Giồng (xin nhắc lại bà chứ không phải ông) hiến tặng họ mấy chục mét đất để làm đường đi vào Nhà Thờ họ. Nếu như ngày xưa, tên tuổi bà này được khắc vào bia đá thì ngày nay được viết vào Sổ Vàng, để đời đời cả họ tri ân công đức của bà.
Nhìn lại họ ta thì sao? nguồn gốc lối vào Từ Đường, hiện trạng của nó thế nào, chắc ai cũng biết. (thậm chí có thể làm cổng khác). Tại sao một người đàn bà như bà Giồng làm được, dù bà ấy chỉ là cháu dâu, con dâu, dù họ người ta thừa sức mua lại đất của bà, mà những ĐÀN ÔNG họ ta lại chưa làm được, trong khi yêu cầu của cả họ nội ngoại rất là khẩn thiết ?
Cái gì mắc mớ ở đây? Cái gì ngăn cản mọi người? Có phải là “so đo”! Xin các chú, các thím, các em, kể cả dâu rể nội ngoại hãy tìm giúp câu trả lời vậy.
Sự kiên trì chịu đựng, tính khoan dung của ai cũng chỉ có giới hạn. Đừng để sự việc đi quá xa, mất tầm kiểm soát! Mấy Chú, mấy Thím không chờ đợi nổi đã phải ra đi. Chỉ còn lại ba bốn ông chú, bà thím ấy, liệu có thể kịp nhìn thấy Từ Đường có đủ đường đi lối lại, để khi nhắm mắt xuôi tay, biết đường mà về Từ Đường cho cháu con phụng tự !
Kính thưa chú thím! Đời chú thím cháu ta cũng chẳng còn được mấy, mà còn quá nhiều việc đang giang giở ! Xin các chú thím cùng các em, nâng cao tinh thần trách nhiệm, quỳ trước Hương Linh của Tổ Tông, Ông, Bà, Cha, Mẹ mà nghĩ suy, bàn bạc, tìm ra được phương sách tốt nhất, giữ được Hoà khí, Tình họ hàng của Dòng Tộc !
Cháu, anh chân thành cảm ơn.
Cháu của các chú thím
Anh của các em
Trưởng tộc



Nguyễn Văn Hớn

27 thg 3, 2012

Tặng các cháu bài thơ hay

Tặng các cháu bài thơ hay, có lời bình giúp dễ cảm nhận:

Thơ Trần Đăng Khoa
Bình thơ: Bài thơ “Mẹ ốm” của Trần Đăng Khoa
Cập nhật: 19/01/2007
Trần Đăng Khoa nổi tiếng là một thần đồng về thơ khi đang còn học lớp ba trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ của Khoa trong sáng giản dị mà dạt dào cảm xúc, đầy tình yêu thương con người và thiết tha yêu quê hương đất nước. Biết bao em nhỏ Việt Nam yêu thích những bài thơ của Khoa viết và bài thơ “Mẹ ốm” cũng vậy. Tác giả đã bộc lộ tình cảm của một người con với mẹ - một tình cảm rất hồn nhiên của tuổi niên thiếu.

MẸ ỐM
Mọi hôm mẹ thích vui chơi
Hôm nay mẹ chẳng nói cười được đâu
Lá trầu khô giữa cơi trầu
Truyện Kiều gấp lại trên đầu bấy nay
Cánh màn khép lỏng cả ngày
Ruộng vườn vắng mẹ cuốc cày sớm trưa
Nắng mưa từ những ngày xưa
Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan
Khắp người đau buốt, nóng ran
Mẹ ơi! Cô bác xóm làng đến thăm
Người cho trứng, người cho cam
Và anh y sĩ đã mang thuốc vào
Sáng nay trời đổ mưa rào
Nắng trong trái chín ngọt ngào bay hương
Cả đời đi gió đi sương
Bây giờ mẹ lại lần giường tập đi
Mẹ vui, con có quản gì
Ngâm thơ kể chuyện rồi thì múa ca
Rồi con diễn kịch giữa nhà
Một mình con sắm cả ba vai chèo
Vì con, mẹ khổ đủ điều
Quanh đôi mắt mẹ đã nhiều nếp nhăn
Con mong mẹ khỏe dần dần
Ngày ăn ngon miệng, đêm nằm ngủ say
Rồi ra đọc sách, cấy cày
Mẹ là đất nước, tháng ngày của con.

Mở đầu bài thơ, tác giả đã miêu tả cảnh mẹ ốm bằng hình ảnh so sánh:
“Mọi hôm mẹ thích vui chơi. 
Hôm nay mẹ chẳng nói cười được đâu”
Thường ngày mẹ hay ăn trầu, đôi má lúc nào cũng đỏ hồng lên. Thế mà hôm nay mọi cảnh vật trong nhà thật buồn bã.  Lá trầu cũng như lặng đi và héo khô trong cơi trầu. Những lúc rỗi rãi mẹ thường ngâm nga Truyện Kiều, giờ mẹ bị ốm nên “Truyện Kiều gấp lại trên đầu...”.
Mẹ vốn là người lam làm tần tảo. Khi mẹ ốm thì “Ruộng vườn vắng mẹ cuốc cày sớm trưa”. Cả cuộc đời mẹ vất vả gian nan nay bị ốm, tác giả đã cảm nhận được và thể hiện qua hình ảnh:
“Nắng mưa từ những ngày xưa
Lặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan”.
Tác giả - một em thiếu niên 10 tuổi đã liên tưởng từ hình ảnh “nắng mưa” mà thấy được sự vất vả, những thăng trầm của cuộc sống mà người mẹ đã phải trải qua. Vì vậy mà tác giả như hiểu được người mẹ đang phải chịu sự “đau buốt, nóng ran” khi bị ốm.
Rồi tình làng nghĩa xóm, sự quan tâm của mọi người tới mẹ cũng được nhà thơ thể hiện rất mộc mạc, giản dị mà thắm đượm tình người:
“Mẹ ơi, cô bác xóm làng đến thăm.
Người cho trứng, người cho cam
Và anh y sĩ đã mang thuốc vào”.
Điều đó chứng tỏ rằng, hàng ngày mẹ sống tốt với mọi người nên khi mẹ ốm mọi người quý mến và thương cảm tới mẹ. Còn nhà thơ - em bé thiếu niên Trần Đăng Khoa bấy giờ đã thấu hiểu nỗi vất vả cực nhọc của mẹ trong cuộc sống lam lũ mà em đã từng chứng kiến và cảm nhận được:
“Cả đời đi gió, đi sương
Bây giờ mẹ lại lần giường tập đi”.
“Cả đời đi gió đi sương” là hình ảnh ẩn dụ diễn tả sự vất vả, gian khổ của người mẹ.
Trong cuộc sống lao động cực nhọc, mẹ đã từng trải qua và vượt lên tất cả để vì cuộc sống và vì tương lai tốt đẹp của các con. Khoa còn hiểu được qua thành ngữ “đi gió đi sương” là nói lên được sự vất vả gian khổ, lao động trong những điều kiện thời tiết khắc nghiệt, sớm tối lặn lội. Cảm nhận được như vậy, chứng tỏ tác giả rất yêu thương mẹ, muốn làm tất cả những gì để mẹ vui lòng mà chóng khỏi ốm:
“Mẹ vui con có quản gì
Ngâm thơ, kể chuyện rồi thì múa ca”.
Khoa còn làm được cả những việc vượt ngoài khả năng mà trước đây bản thân chưa làm được: “Một mình con sắm cả ba vai chèo” - một em thiếu niên thật là ngoan ngoãn, có thể lúc trước còn nhõng nhẽo, hay vòi vĩnh mẹ nhưng bây giờ mẹ ốm đã biết thể hiện sự hiếu thảo của mình qua sự chăm sóc mẹ. Nhìn những nếp nhăn hằn trên khuôn mặt của mẹ, Khoa rất cảm động và thấy vô cùng biết ơn mẹ:
“Vì con mẹ khổ đủ điều
Quanh đôi mắt mẹ đã nhiều nếp nhăn”.
Vì vậy mà trong lòng của nhà thơ lúc nào cũng ước:
“Con mong mẹ khoẻ dần dần
Ngày ăn ngon miệng đêm nằm ngủ say”.
Thật cảm động biết bao trước tình cảm đẹp đẽ của một người con - một cậu bé chưa đầy 10 tuổi trước cảnh “Mẹ ốm”. Bài thơ còn hay ở câu kết mà tác giả đã nói hộ chúng ta về lòng biết ơn vô hạn của những đứa con với các bà mẹ:
“Mẹ là đất nước, tháng ngày của con”.
Phải chăng đó cũng là tình cảm của mỗi chúng ta khi nghĩ về mẹ: Con yêu mẹ nhất trên đời, con yêu mẹ như yêu đất nước và mẹ chính là Tổ quốc của riêng con !
Trần Thị Thành (báo Bắc Giang).

Giỗ Tổ năm Giáp Thân (2004):






















26 thg 3, 2012

Giỗ Tổ năm 19...


Nhớ khi xưa vất vả gian nan
Thương con cháu đến bần hàn cơ cực !