(12h: 06-08-2012) / Bài và ảnh của Phlanhoa
Bài này
dành cho các gia đình không là đệ tử chay tịnh của Phật.
Năm
ngoái khi ba tôi hiển linh, đã có nhắc nhở con cháu rằng: “Các con đã không là đệ tử cửa Phật thực thụ (nghĩa là không phải người
tu hành), thì khi cúng khấn, câu đầu tiên các con phải kính lạy Hoàng thiên Hậu
thổ nước Việt; sau đó kinh lạy các vị Việt Nam Thánh Quốc mới là phải đạo, còn
việc nam mô...hãy để khi đi lễ chùa”. Đó là ba tôi nói vậy bởi ông có chí
khí của một vị tướng lĩnh, nhưng trong lịch sử Việt Nam, từng có những vị trước
và sau khi đăng ngôi, từng là đệ tử của chay tịnh, vậy thì việc “Nam mô a di
đà…” cũng không có gì lỗi đạo cho lắm. Tuy nhiên, việc khấn vái phải theo trật
tự trên dưới rõ ràng. Phật có nguồn gốc từ con người, cho nên dù có phép thần
thông quảng đại đi chăng nữa, thì cũng không ngoài vòng cương tỏa của Trời -
Đất. Vậy thì khi khấn vái phải lạy Hoàng Thiên Hậu Thổ trước, rồi mới đến Phật.
Tham khảo các bài sớ cúng của các dòng họ, tôi thấy các cụ xưa cũng thường theo
trật tự: Chư Thiên – Chư Địa – chư Thần – Chư Phật - Chư thánh – Thành hoàng
làng – Gia Tiên, không phải như con cháu bây giờ để Phật lên trước trời đất? Ví
dụ: Con sám hối lạy chín phương trời, năm
phương đất, chư Phật mười phương chẳng hạn…
Quay lại
vấn đề chính đã nêu ra ở trên, để thờ cúng trong nhà bà con cần chuẩn bị những
gì? - Xin thưa chúng ta cần:
1. Rường thờ
2. Hương án
3. Bài vị
4. Bát hương
5. Hoành phi
6. Đối liễn
7. Lễ vật (hương, đăng, hoa, quả, nước)
8. Sớ cúng
Giải thích ý nghĩa, phương cách thực hiện
từng mục trên như sau:
1. Rường thờ : có nơi
gọi là giường thờ, gọi là giường thờ vì giường thờ vốn có mành hoặc rèm che, là
nơi nghỉ ngơi của linh hồn tiên tổ. Nhưng vì giường là thứ dành cho người phàm
tục, sợ phạm húy với tổ tiên, nên nhân dân gọi chệch thành “rường” chỉ khi cần
thắp hương mới vén rèm lên. Khi xong rồi thì phải kéo rèm che kín lại không cho
khách khứa nhìn thấy hương án, ngoại trừ ba ngày tết.
Phía
trước cửa rường thờ, hai bên là hai câu đối, bên trên cùng là hoành phi, bên
trong là hương án (bàn thờ), rường thờ được chia làm hai bậc cao thấp, trái
phải, bên trái cao hơn một chút thờ ngũ vị tài thần, bên phải thấp hơn một chút
thờ gia tiên; Hoặc phía sau cao hơn thờ tài thần, phía trước thấp hơn thờ gia
tiên.
2. Hương án (香案) : “Án”
là cái bàn, “hương án” là cái bàn để bày lễ vật thắp hương, nhân dân gọi nôm na
là bàn thờ. Hiện nay các nhà ít khi có mành che nên có thể nói là không còn
rường thờ mà chỉ có bàn thờ (hương án).
3.
Bài vị (簰位): “Bài” là cái thẻ bằng gỗ mỏng hay bằng giấy cứng
có viết chữ trên đó. “Vị” là chỗ đứng. “Bài vị” còn được gọi là “Thần chủ”, là
một tấm thẻ, trên đó có ghi đầy đủ tên họ người chết, năm sinh, ngày chết, chức
tước, quê quán, dùng để tế lễ và thờ phụng.
Cách
viết chữ lên bài vị:
- Chức danh của vị gia tiên được thờ phụng, ví
dụ: Cao tổ khảo (kị), hoặc Tằng tổ khảo (cụ), Tổ khảo (ông); Hiền khảo (cha)
- Chức tước và công danh (nếu có) của vị gia
tiên được thờ phụng;
- Tuổi thọ: nếu từ 60 tuổi đổ lại thì ghi
hưởng dương, từ 61 trở lên mới ghi hưởng thọ
- Vai vế trong dòng họ: Con trưởng thì ghi họ
rồi thêm “mạnh công”, nếu là con thứ thì ghi họ rồi thêm"trọng công",
con út thì thêm “quý công”, sau đó mới tên huý của vị gia tiên.
Xem thêm
ở bài: “Cấu trúc thờ cúng trong nhà thờ họ và tổ chức tề lễ ”
4. Bát hương và cách lập Bát hương: Phương
pháp làm bát hương hiện nay trong nhân dân thường phụ thuộc vào thầy cúng, hoặc
thầy chùa. Có người nói sau khi làm bát hương phải được thầy chùa đem “Mật tông
kinh” cầu nguyện làm phép mới linh, tôi e là không phải đối với những gia đình
không là đệ tử cửa Phật?
Còn thầy
cúng thì chẳng ai có thể kiểm nghiệm nổi thần thông quảng đại của thầy ở mức
nào, mà chỉ thấy bát hương đắt đỏ thôi rồi, cho nên nhiều gia đình cũng than
vãn “tiền mất tật mang”. Bởi vậy tôi mạnh dạn đưa lên đây phương
pháp sắm sanh bát hương, ai tin
tôi cứ theo mà làm. Thiết nghĩ, đạo nghĩa đã dạy việc thờ cúng phải làm theo
tiếng gọi từ lương tâm, linh hồn có thể xâm nhập được vào trong trí não của
mình để lắng nghe hư thực, nên có thờ ắt có thiêng mà không nhất thiết phải có
“Mật tông kinh”. Chỉ cần ấn định danh phận cho vị gia tiên muốn thờ trong bát
hương là đủ, cách làm bát hương như sau:
Chọn mua
bát hương: Tuỳ theo khả năng tài chính có thể chọn đồ gốm hoặc đồ đồng. chữ
khắc trên bát hương nên chọn chữ “Phước”. Hình con vật nên chọn một cặp rồng -
phượng cùng châu vào biểu tượng của thái cực (vòng tròn âm dương). Chọn như vậy
thì âm dương mới hài hoà, mới hỗ trợ cho sự sinh tồn vững bền của dòng tộc. Nếu
bát hương chưa có biểu tượng âm dương thì vẽ nó lên giấy rồi dán bên dưới bát
hương. Bát hương mua về phải rửa sạch bằng nước thơm ngũ vị hương (có bán tại
tiệm bán bát hương), lau khô;
Bỏ gì
vào trong bát hương?
- Thần sa, chu sa : theo quan niệm của người
xưa, thần sa, chu sa có khả năng từ tà khí, nghĩa là bát hương thỉnh cho vị gia
tiên nào thì vị gia tiên đó hiển nhiên là chính khí hiển linh, tà khí không vào
phá bát hương được. Thần sa, chu sa bà con có thể tìm đến tiệm thuốc đông y để
mua, tuy nhiên tuyệt đối không được bỏ nhiều, mỗi bát hương chỉ khoảng 1 – 2gr
- Tro: Dùng rơm sạch để đốt lấy tro, ở thành
phố không có rơm thì mua thật nhiều hương về đốt lấy tro.
- Một chùm tua rua ngũ sắc nhỏ kết bằng 5 sợi
chỉ năm màu;
- Một tờ giấy mộc nhuộm đỏ viết nội dung
giống như trên bài vị, nếu vị gia tiên được thờ phụng có mộ thì tốt nhất xin
một chút đất mộ và rút ba chân hương ở mộ rước về càng linh; Nếu là bát hương
chung thì lập danh sách tất cả những người muốn thờ cũng theo nội dung bài vị,
hoặc ghi chung “Gia tộc hoặc chi tộc…(họ: Nguyễn Văn, Lê Huy…) bài vị linh
thần”, rồi ghi thêm “Phúc lộc thọ toàn”;
- Đối với “thất bảo”, tôi chỉ thấy ở miền Nam
ảnh hưởng của đạo Cao Đài, còn như Xứ Nghệ An đổ ra thì không có món này.
Gấp bài
vị cho vuông vắn lại, rồi dùng một mảnh giấy trang kim (giấy kẽm tráng kim
tuyến vàng mục đích là nhỡ có bị cháy cội hương, lớp giấy kẽm sẽ bảo vệ để bài
vị không bị cháy lẫn vào cốt tro bên ngoài) gói tất cả các thứ: đất mộ, tiền,
chỉ ngũ sắc, giấy bài vị, thần sa, chu sa tán bột mịn để vào, gói tờ giấy trang
kim lại cho vuông vắn, để xuống dưới đáy bát hương, sau đó mới đổ tro lên cho
đầy. Cắm 3 cội hương rước tứ ngoài mộ về, lau sạch bên ngoài và để trang nghiêm
lên hương án, phía trước bài vị.
Chú ý: bát
hương mỗi khi được định vị trên hương án rồi thì kiêng kỵ bị xê dịch vị trí,
gia đạo sẽ gặp chuyện chẳng hay. Do đó, nếu cẩn thận thì nên dùng keo hai mặt
dính chặt xuống. mỗi năm chỉ được sửa sang bát hương từ sau 23 – 30 tháng chạp
mà thôi.
Bát
hương thờ ngũ vị tài thần theo phong tục thuần Việt hoàn toàn không giống với
Trung Quốc, ngũ vị tài thần của Việt Nam là Hoàng thiên, Hậu
thổ, là vua trời vua đất của nước Việt và ba vị tam tài Đông trù tư mệnh Táo
chủ thần quân chủ về cơm no áo ấm, sức khoẻ; Thổ địa long mạch tôn thần chủ về
đất đai long mạch và sự tiềm ẩn của cải sinh sôi; Ngũ phương ngũ thổ phúc đức
chính thần chủ về tiền tài, thóc gạo đã thu hoạch, gặt hái về (tôi đã có nói
trong bài thờ cúng táo quân).
Đối với
bát hương thờ ngũ vị tài thần, đứng trong khuôn viên nhà mình mà
nhìn ra cổng thì bên trái là long mạch, đào sâu xuống đến khi đụng phải nước,
lấy một chút đất lẫn nước ở đó, cùng với một chút tro giữa lòng bếp hợp lại
trộn với thần sa, chu sa rồi cũng gói vào tờ giấy trang kim với tiền âm dương,
tua rua ngũ sắc mà để xuống đáy bát hương trước khi đổ tro lên cho đầy.
5. Hoành phi: là vật trang trí bên ngoài cho thêm phần
trang trọng, cho nên có thì đẹp đẽ hơn lên, còn như chưa có điều kiện thì cũng
không ảnh hưởng gì đến việc thờ cúng cả, đối liễn cũng vậy. Hoành phi còn gọi
là “biển”, “bức hoành”, vốn là một bức thư họa. thay vì đối liễn được viết dọc,
thì hoành phi được viết ngang, dạng như một câu khẩu hiệu ngắn khoảng 3 – 5 chữ
treo ở phòng khách, nhà thờ…Thông thường hoành phi trang trí ngang bên trên,
còn hai câu đối được treo dựng hai bên, ví dụ bức hoành phi dưới đây được treo
ở bàn thờ gia tiên, hoặc ở nhà thờ tổ:
光留德
Đức lưu
quang
(Đức độ
tỏa sáng)
6. Câu đối : Hay
còn gọi là câu “đối liên” là những câu chữ Hán hay chữ Nôm, có nơi dùng chữ
quốc ngữ viết từng cặp dọc đi đôi, và ý nghĩa cũng đi đôi, thể hiện trên chất
liệu vải, gỗ, hoặc giấy, ví dụ như một số câu đối sau đây:
Mộc xuất thiên chi do hữu bản
Thủy lưu
vạn phái tổ tùng nguyên
(Cây
chung ngàn nhánh sinh từ gốc
Nước
chảy muôn dòng phát tại nguồn)
Hoặc là:
Nhật nguyệt quang chiếu thập phương
Tổ tông
lưu thùy vạn tuế
(Vầng
nhật nguyệt mười phương rạng rỡ
Đức Tổ
Tông muôn thuở sáng ngời)
7.
Lễ vật :
- Thứ bắt buộc phải có khi thắp hương: Hương,
đăng (đèn), hoa, ngũ quả, nước (5 chén + một bình)
- Vàng tiền thì cúng đốt vào các dịp trọng đại
như tết, giỗ, ngoài ra thì rằm tháng giêng, rằm tháng bảy, rằm tháng mười. Khi
cúng tiền vàng, phải ghi rõ tên của vị gia tiên được hưởng lộc trước khi hoá
vàng.
- Đối với cỗ mặn, to nhỏ tuỳ tâm và tuỳ khả
năng tài chính của gia chủ, nhưng chỉ nên bày lên mâm, đặt lên một cái bàn
riêng rẽ để phía trước bàn thờ với đầy đủ bát, đũa, thìa, muỗng, chén uống rượu
như thể dọn mâm tiệc đãi khách. Chờ cho cháy hết 2/3 chân hương thì con cháu
được phép phá cỗ.
8.
Ai thì được thờ ai?
Tại sao
người Việt Nam
nhận mình là con của Rồng, nhân đây cũng nói luôn vì sao chúng ta lại là cháu
tiên?
Chúng
tai ai mà không thường được nghe hàng ngày hai chữ “gia tiên”. Vậy thì thiết
nghĩ cũng nên có kiến thức hiểu biết xem “tiên” là ai?
Tiên của
người Việt không phải là các tiên nữ ở trên thượng đế. Người Việt gọi chức danh
của những người đã khuất trong bài sớ như sau:
- Cha/mẹ thì gọi là hiền khảo/hiền tỉ
- Ông/bà thì gọi là tổ khảo/tổ tỉ
- Cụ thì gọi là tằng tổ khảo/tằng tổ tỉ
- Kị thì gọi là cao tổ khảo/cao tổ tỉ
- Và từ vị thân sinh của cao tổ khảo đồ về
trước đến đời thứ 2 được gọi là tiên tổ khảo
- Đời thứ nhất gọi là thuỷ tổ
Như vậy
thì đã rõ tiên là ai, và tập quán người Việt quy định cấp bậc được phép thờ
phụng tiên tổ như sau:
- Trưởng tộc: phải thờ tất cả từ thuỷ tổ - tiên tổ - cao - tằng - tổ - khảo đổ
xuống,
- Trưởng chi họ: phải thờ 4 đời gồm : Cao tổ
- tằng tổ - tổ - khảo (cao tổ được lên tiên khi trong chi họ có thế hệ
thờ cúng mới, ví dụ khảo chết thì con trưởng đảm nhiệm ngôi vị thờ cúng, lúc đó
Cao tổ khảo được rước bài vị sang nhà thờ tộc để làm lễ lên tiên. Nếu dòng họ
nào chưa có nơi thờ tự dòng tộc chính thống, thì bài vị tiên tổ được xếp cất
vào một hòm gỗ không tiếp tục thờ phụng nữa);
- Con trưởng trong gia đình thì thờ 3 đời:
Tằng – tổ - khảo
- Con thứ trong gia đình thì chỉ thờ khảo,
hoặc tổ - khảo mà thôi
Như vậy
là tôi đã hoàn thành nhiệm vụ giới thiệu về phương pháp thờ cúng trong gia
đình. Hy vọng ai đã quan tâm thì nên đọc cho kỹ, hiểu cho thấu đáo để thờ phụng
cho đúng ý nghĩa, thoát khỏi sự u mê của các thầy cúng bày trò dị đoan lừa tiền
dân chúng. Tu tâm mà giữ lấy cái chân thiện mỹ, cái phước đức lâu bền cho gia
đình, cho dòng họ được hưng thịnh muôn đời ./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét